Nhắc đến ẩm thực Lào Cai, có phải chúng ta thường nhớ đến thắng cố mang đậm hương vị núi rừng, thịt lợn cắp nách chắc thịt thơm ngon, cá hồi SaPa sắc vàng cam bắt mắt có giá trị dinh dưỡng cao, thịt trâu gác bếp được tẩm gia vị đậm đà thấm đượm mùi khói, sợi phở chua Bắc Hà dai dai thanh thanh, mận SaPa chua chua ngọt ngọt, rượu Sán Lùng mang hương vị đặc trưng của men lá rừng…
Dù bạn có yêu ẩm thực núi rừng Tây Bắc, hay chỉ là muốn nếm thử hương vị của những món khác nhau, thì cũng đừng quên thưởng thức đặc sản của Lào Cai: tương ớt Mường Khương. Đó là hương vị cay cay, nồng nồng đặc biệt đã trở thành dư vị khó quên cho bất kỳ ai từng nếm thử.
Sự ra đời của lọ tương ớt Mường Khương
Vốn dĩ ban đầu, người dân chỉ làm những lọ tương ớt trữ trong nhà với mục đích phục vụ nhu cầu ăn uống gia đình. Dần dần, những lọ tương ớt với cách làm giã tay truyền thống đã xuất hiện trên các bữa cơm của các nhà hàng tại trung tâm thị trấn SaPa, khiến cho những thực khách mãi nhớ hoài hương vị cay nồng tê cả đầu lưỡi đặc trưng. Từ đó, những lọ tương ớt Mường Khương đã chính thức “lột xác”, trở thành một trong những đặc sản của chốn núi rừng Hoàng Liên Sơn hùng vĩ.
Cách người dân làm ra những lọ tương ớt Mường Khương
Người dân tộc thiểu số sinh sống tại huyện Mường Khương có truyền thống trồng ớt, đó là những quả ớt thóc với cỡ bé bằng đầu đũa, vỏ nhăn, khi xanh màu trắng, khi ương màu vàng và khi chín màu đỏ, với một vị cay nồng rất đặc trưng. Chính những trái ớt thóc đặc biệt này đã làm nên hương vị khó mà lẫn được của tương ớt Mường Khương.
Cây ớt thóc được trồng chủ yếu ở huyện Mường Khương.
Ớt thóc phải đạt đến độ chín đỏ hoàn hảo, không bị xanh, không bị chín quá hoặc bị dập hay héo. Ngoài ra không thể không kể đến những gia vị góp phần làm nên hương vị của lọ ớt đậm đà và cay nồng của chốn vùng cao Tây Bắc như tỏi, hạt rau mùi, hạt thì là và những loại thảo mộc như quế thơm, thảo quả và cả loại rượu ngô đặc biệt của vùng Bắc Hà.
Ớt thóc sau khi thu hoạch sẽ được mang đi rửa với nước thật sạch, bỏ cuống. Khi ớt đã ráo hẳn nước, mọi người sẽ mang ớt đi xay lẫn với tỏi. Các loại hạt sau khi đã được rửa sạch cũng sẽ được mang đi rang chín cho dậy mùi thơm, sau đó mang đi xay nhỏ riêng từng loại. Tiếp theo đó, người làm tương sẽ tiếp tục pha nước đun sôi để nguội với muối hạt, sau đó cho cả hỗn hợp ớt xay với tỏi và cả rượu ngô Bắc Hà vào thùng và mang đi ủ trong khoảng 2 tháng liên tục kể từ khi chế biến. Ngâm ủ cho lên men đến độ ngấu, hỗn hợp được khuấy hàng ngày cho đều và xả bớt hơi của quá trình lên men.
Một điểm đặc biệt là thùng dùng để ủ tương phải là loại thùng làm từ gỗ sồi và có nắp đậy kín bằng khăn mỏng để giữ độ thoáng thì mới cho ra được chuẩn xác hương vị. Kết thúc thời gian ủ, tương ớt sẽ được chiết vào những lọ, hũ nhỏ và sau đó đem ra bán tại các phiên chợ của người dân tộc thiểu số.
Tương ớt Mường Khum và ớt thóc được người dân mang ra chợ phiên bán rất nhiều.
Người làm phải đảm bảo tiêu chuẩn khắt khe từ khâu lựa chọn nguyên liệu đến các dụng cụ để xay hay ủ. Nếu không thì tương ớt sẽ không ngon, thậm chí còn nhanh bị hỏng.
Hương vị cay nồng đậm đà khó quên
Bất kì ai khi dùng tương ớt Mường Khương đều nhận xét tương có một vị cay nồng rất đặc biệt cùng hương thơm nhẹ nhàng của ớt tươi, cả thảo dược và những nguyên liệu đến từ những khu rừng già nơi Tây Bắc, tạo nên một vị rất độc đáo mà dường như chẳng lọ tương ớt nào dưới miền xuôi có thể có được hương vị chuẩn xác đến vậy.
Hương vị cay nồng của tương ớt Mường Khum làm lòng người say đắm không quên.
Ngoài dùng để làm nước chấm cho các món luộc, nó còn là gia vị không thể thiếu trong các món ăn bình dân hàng ngày như: bún, phở, cháo… Đặc biệt khi sử dụng để chấm cùng thịt trâu gác bếp hay thịt heo gác bếp thì bạn khó có thể cưỡng lại. Tương ớt Mường Khương – lọ tương “nhỏ nhưng có võ” của chốn non cao Tây Bắc cùng hương vị cay nồng khó cưỡng đã khiến bao thực khách mãi nhớ hoài nếu có dịp một lần nếm thử.